TAM Á, Trung Quốc, 10/12/2024 /PRNewswire/ -- Tại Hội nghị chuyên đề lần thứ 5 về Hợp tác Hàng hải Toàn cầu và Quản lý Đại dương do Trung tâm Hợp tác Hàng hải và Quản lý Đại dương Hoa Dương, Viện Nghiên cứu Biển Đông Quốc gia, Quỹ Phát triển Đại dương Trung Quốc và Viện Nghiên cứu Cảng Thương mại Tự do Hải Nam tổ chức, các diễn giả đã bày tỏ quan điểm của họ về công cuộc bảo vệ môi trường sinh thái biển và phát triển bền vững nghề cá biển.

Trụ cột phát triển du lịch bền vững

Nguyên tắc phát triển bền vững trong du lịch thiết lập sự cân bằng phù hợp giữa các khía cạnh môi trường, kinh tế và văn hóa xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học. Trong quá trình vận hành, tính bền vững thể hiện ở khía cạnh hướng tới giảm thiểu tác động đối với môi trường và văn hóa địa phương, đồng thời góp phần tạo ra thu nhập, việc làm và bảo tồn các hệ sinh thái tại đó.

Đồng thời, du lịch bền vững cung cấp các động lực kinh tế quan trọng để bảo vệ môi trường sống. Nguồn thu từ du khách thường được chuyển trở lại các chương trình bảo tồn thiên nhiên hoặc nâng cao năng lực cho cộng đồng địa phương để quản lý các khu bảo tồn. Hơn nữa, du lịch có thể là một phương tiện quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và thúc đẩy thay đổi hành vi tích cực đối với việc bảo tồn đa dạng sinh học trong số hàng triệu người đi du lịch trên toàn cầu mỗi năm. Tuy nhiên, xây dựng ngành du lịch bền vững vẫn đang là mục tiêu của nhiều quốc gia, đặc biệt tại các nước đang phát triển nơi mà cấp độ hiện tại chủ yếu là du lịch đại chúng.

Du lịch bền vững khác với du lịch đại chúng như thế nào?

Du lịch đại chúng thường chỉ hướng đến mục tiêu duy nhất là lợi nhuận của bên tổ chức, không có mục tiêu cho việc nâng cao công tác bảo tồn hoặc mang lại những lợi ích cho cộng đồng địa phương và có thể phá huỷ nhanh chóng các môi trường nhạy cảm. Ví dụ, với những vùng biển cần được bảo tồn, thì các hoạt động du lịch đại chúng tại đó có thể mang đến những tác động xấu do việc thiếu kế hoạch và quản lý hiệu quả. Khai thác nhiều năm có thể phá huỷ hoặc làm thay đổi một cách không thể nhận ra được các nguồn lợi và văn hoá mà chính những chuyến du lịch đại chúng này phụ thuộc vào. Du lịch đại chúng không cung cấp nguồn quỹ tài trợ cho cả các chương trình bảo tồn lẫn cộng đồng địa phương bảo vệ vùng tránh khỏi những hoạt động và phát triển mà có thể gây hại đến cảnh đẹp tự nhiên của vùng. Những cơ hội và các đe doạ tác động tới môi trường và văn hóa xã hội có thể chỉ được điều khiển thông qua các kế hoạch được lập ra và quản lý cẩn thận của du lịch bền vững.

Du lịch bền vững thì được lập kế hoạch đa mục đích: lợi tức, môi trường và cộng đồng ngay từ khi bắt đầu, nhằm mang lại những lợi ích cho cộng đồng địa phương, tôn trọng văn hoá, bảo tồn nguồn lợi tự nhiên, hướng dẫn du khách và cả cộng đồng địa phương. Trong kế hoạch này thường có sự tham gia của các bên liên quan, hướng tới địa phương nơi du khách sẽ tới. Các bên liên quan bao gồm các thành viên cộng đồng địa phương, chính quyền, tổ chức phi chính phủ cũng như ngành du lịch, du khách và nhiều nhóm khác. Tất cả cần phối hợp để tạo ra các tổ chức kinh doanh về du lịch bền vững nhằm đem lại các lợi ích địa phương và khả thi về mặt kinh tế. Đặc biệt các nguồn lợi tự nhiên, các giá trị văn hoá của vùng sẽ được bảo vệ để giảm thiểu các tác động xấu của du lịch, đồng thời còn đóng góp vào công tác bảo tồn và sức khoẻ của cộng đồng về cả mặt kinh tế và xã hội.

Du lịch có mối quan hệ đặc biệt, hai chiều với môi trường. Chất lượng của môi trường là yếu tố cần thiết cho sự thành công của du lịch, vì đây thường là yếu tố thu hút mọi người đến thăm một địa điểm và thuyết phục họ quay trở lại. Do đó, nguyên tắc của du lịch bền vững là giảm thiểu các tác động đến môi trường (động thực vật, các sinh cảnh sống, nguồn lợi sống, sử dụng năng lượng và ô nhiễm,…) đồng thời có những tác động góp phần làm tăng tính đa dạng sinh học, bảo tồn cảnh quan,… thông qua việc quản lý vùng, bảo tồn và nâng cấp di sản, giảm ô nhiễm do rác thải, tăng cường nghiên cứu giải pháp khoa học để bảo vệ môi trường.

Tại châu Âu, nơi du lịch là ngành kinh tế lớn thứ ba với uớc tính số lao động là 17 triệu người và đóng góp gần 10% tổng sản phẩm quốc nội của EU thì cơ quan Môi trường Châu Âu đã tiến hành xây dựng cơ chế báo cáo về mối quan hệ du lịch và môi trường, với hệ thống chỉ số du lịch Châu Âu về quản lý điểm đến bền vững (ETIS), được phát triển như một phần hành động của EU thúc đẩy du lịch bền vững.

Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh du lịch toàn cầu năm 2017, nhiều chỉ số liên quan đến môi trường của Việt Nam đạt mức thấp như mức độ bền vững về môi trường xếp hạng 129/136, mức độ chất thải hạng 128/136, tình trạng phá rừng hạng 103/136, hạn chế về xử lý nước thải hạng 107/136,…)(1). Hiện tại 2021, Việt Nam đang triển khai nhiều mô hình, sáng kiến nhằm nâng cao nhận thức về công tác bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch. Trong đó, bước đổi mới quan trọng là gắn trách nhiệm của chính quyền địa phương trong cải thiện môi trường du lịch; xây dựng chương trình tuyên truyền, giáo dục văn hóa ứng xử của cộng đồng dân cư đối với khách du lịch và bảo vệ tài nguyên môi trường du lịch; ứng dụng công nghệ xanh, công nghệ sạch trong các khách sạn, khu du lịch.

Điển hình có thể kể đến vùng biển Cù Lao Chàm, xã Tân Hiệp, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Với diện tích khoảng 15 km2, Cù Lao Chàm không chỉ là nơi bảo tồn nhiều loài động thực vật quý hiếm, mà còn là một di tích văn hóa lịch sử gắn với sự phát triển của thương cảng Hội An trước đây. Sau 10 năm bảo tồn và phát triển, hệ sinh thái của khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm được phục hồi tương đối nguyên vẹn và trở thành điểm đến hấp dẫn trên bản đồ du lịch Quảng Nam và khu vực miền Trung nước ta. Năm 2019 đã đánh dấu mốc 10 năm kể từ ngày Cù Lao Chàm chính thức được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển Thế giới.

Xu thế phát triển du lịch bền vững

Du lịch là một trong những ngành lớn nhất, không ngừng phát triển và ảnh hưởng tới sự tăng trưởng rộng khắp các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa. Có thể nhận thấy điều này thông qua con số thống kê về số lượng các chuyến du lịch thực hiện mỗi năm trước khi COVID-19 xuất hiện đã vượt qua dân số thế giới. Năm 2019 lượng khách du lịch quốc tế vượt 1,5 tỷ lượt, và dự kiến sẽ lên tới 1,8 tỷ lượt vào 2030. Tuy nhiên, khi du lịch phát triển ẩn chứa tiềm tàng mối đe doạ đến các sinh cảnh sống, xáo trộn đời sống hoang dã, tác động đến chất lượng nước và đe doạ cộng đồng địa phương do việc phát triển quá mức, dễ phá vỡ các giá trị văn hoá địa phương. Do đó, các quốc gia và các vùng cần lập kế hoạch một cách cẩn trọng theo hướng du lịch bền vững để mang những lợi ích đến cho cộng đồng địa phương, tôn trọng văn hoá địa phương, bảo tồn nguồn lợi tự nhiên, nguồn lợi trực tiếp được mang đến cho cộng đồng địa phương.

Du lịch bền vững tìm cách duy trì số lượng, chất lượng và năng suất của cả hệ thống tài nguyên thiên nhiên và con người theo thời gian, đồng thời tôn trọng và thích ứng với các động lực của hệ thống đó. Theo Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên hợp quốc, du lịch bền vững là du lịch đáp ứng nhu cầu của khách du lịch hiện tại và các khu vực tiếp nhận đồng thời bảo vệ và nâng cao cơ hội cho tương lai. Mục tiêu là duy trì các lợi thế kinh tế và xã hội khi phát triển du lịch đồng thời giảm thiểu bất kỳ tác động không mong muốn nào đến môi trường tự nhiên, lịch sử, văn hóa xã hội tại địa bàn liên quan.

Trong một nghiên cứu 2020 mới đây của Booking.com thực hiện với 29.000 du khách trên 30 quốc gia, bao gồm cả Việt Nam cho thấy, cam kết hướng tới bền vững trong sinh hoạt hàng ngày của du khách cũng nhất quán với ý định của họ cho các chuyến du lịch sau này. Theo đó, 100% du khách Việt trả lời rằng, trong năm tới, họ mong muốn lưu trú tại những nơi cam kết với du lịch bền vững; 88% du khách Việt muốn giảm rác thải tổng hợp, 86% muốn giảm mức tiêu thụ năng lượng; 81% muốn sử dụng loại hình giao thông thân thiện với môi trường hơn như đi bộ, xe đạp hoặc phương tiện công cộng thay vì taxi hay thuê xe; 84% du khách Việt muốn có những trải nghiệm chân thật, mang nét đặc trưng văn hóa bản địa; 93% tin rằng việc nâng cao nhận thức về văn hóa cũng như việc bảo tồn di sản.(3)