Thuở nhỏ, ông từng theo học tại Collège de Mytho (nay Trường Trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu, thành phố Mỹ Tho) và Trường Lasan Taberd ở Sài Gòn, nên thông thạo Pháp ngữ. Nhờ thế, ông có dịp tiếp cận những trước tác của nền văn học Pháp. Năm 1922, lúc mới 16 tuổi, ông gia nhập gánh hát Thầy Năm Tú ở Mỹ Tho, chính thức nhập tịch làng nghệ thuật cải lương. Nghệ sĩ Nhân dân Viễn Châu viết: “Năm 1922, anh Năm Châu đã là kép chính sáng giá nhất của ban cải lương Thầy Năm Tú ở Mỹ Tho. Anh là người tài giỏi, có ý chí và luôn nhìn xa trông rộng, nắm bắt tình thế để ứng biến cho nghề, cho sân khấu một cách thần thông”. Kể từ ấy, ông cùng một lúc đảm nhiệm nhiều công việc khác nhau, như quản lý, soạn giả, đạo diễn, diễn viên, đào tạo diễn viên,... Ở phương diện nào, ông đều tỏ ra xuất sắc: * Về quản lý, ông đã thành lập các gánh Nam Thinh (1933), Ca kịch đoàn Năm Châu (1940 - 1945), Ban Việt kịch Năm Châu (1948 - 1955), sau đó đổi tên thành đoàn Phước Chung (1955 - 1956), đoàn Ánh Chiêu Dương (1967). * Về soạn giả và đạo diễn, ông đã viết và dựng các vở Giọt lệ cương thường, Vẹn tấm lòng son, Võ Tòng sát tẩu (1926), Ngọn cờ hiệp nữ (Một tấm lòng quê), Tiếng nói của trái tim, Huyền Châu nữ chúa, Tội của ai, Thôi Tử thí Tề quân (1927 - 1933), Người với người (Đóa hoa rừng), Tố Hoa nương, Túy Hoa vương nữ, Trường Hận (1935 - 1936), Hoa cuối mùa, Đêm không ngày (1938 - 1939), Mộng hoa vương, Áo người quân tử, Men rượu hương tình, Chiếc áo thiên nga, Nợ dâu, Tư sinh tử, Thái tử Hàm Liệt, Cách Lan phương tử, Gió ngược chiều, Miếng thịt người, Tuyết băng và bạo lực, Tây Thi gái nước Việt, Hồn bướm mơ tiên (1941 - 1953), Sân khấu về khuya, Ngọn cờ đầu (Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định), Nghêu sò ốc hến (1975 - 1978),… * Về diễn viên, ông đóng nhiều vai với những loại nhân vật khác nhau, như Đổng Kim Lân (trong San Hậu), Lã Bố (trong Phụng Nghi Đình), Thôi Tử (trong Thôi Tử thí Tề quân), An Lộc Sơn (trong Trường Hận), Tuyệt sĩ (trong Huyền Châu Nữ), Trần Đạt Văn (trong Tư sinh tử), Ngọc (trong Hồn bướm mơ tiên), Hội đồng Thăng (trong Đời Cô Lựu), Năm Bình (trong Men rượu hương tình), Lĩnh Nam (trong Sân khấu về khuya),… * Về nghệ thuật, ông là một nghệ sĩ rất nghiêm túc. Ông đã từng phát biểu: “Quan niệm về tuồng tích của tôi từ trước đến giờ là cả cuộc đời nào đó, mình thu nhỏ lại để trình diễn có vài ba tiếng đồng hồ trên sân khấu, cho nên cần phải súc tích, cô đọng và nhân vật trong tuồng phải có cá tính khác biệt. Còn về nghệ thuật cải lương, quan niệm của tôi trước sau là một sân khấu thật và đẹp. Vì như vậy, lúc tập tuồng, tôi rất khắt khe với các diễn viên. Tôi bắt anh em đóng vai nào phải ra vai nấy, không được hát cương, phải theo đúng từng lời nói trong tuồng. Ca bản nào cho đúng bản đó. Chớ tôi nghe một vài anh em trẻ ca các bản Nam, Bắc, Oán gần giống như nghe ca vọng cổ, nghe tức muốn bể cái ngực”. * Về đào tạo diễn viên, năm 1948, khi thành lập Ban Việt kịch Năm Châu, ông mới chính thức bắt đầu vai trò đào tạo diễn viên cải lương. Là người đặt nền móng cho một nền cải lương “thật và đẹp”, ông rất chú trọng đến tri thức và hình ảnh đời sống nghệ sĩ. Sinh hoạt của Ban kịch có lề lối, kỷ cương nghiêm túc. Ông nghiêm khắc đề ra các điều nội quy “cấm nói tục, cờ bạc, hút nghiện”. Ông còn thuê người về dạy chữ cho những nghệ sĩ trong ban kịch của mình. Năm 1962, ông được mời làm giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn (nay là Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh), giảng dạy bộ môn nghệ thuật cải lương. Với tinh thần “ái sinh truyền đạo”, ông đã đúc kết kinh nghiệm thực tiễn hàng chục năm trên sàn diễn nhằm góp phần đào tạo nguồn nhân lực có đức tài cho sân khấu cải lương. Sau 1975, vợ ông - nghệ sĩ Kim Cúc - được mời dạy khóa đào tạo diễn viên Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang, đã dùng giáo án của ông để tiếp tục sự nghiệp mà ông đã dày công vun đắp. Là một nghệ sĩ có lòng yêu nước, năm 1948, ông cùng với các ông Trần Hữu Trang (Tư Trang) và Nguyễn Long Vân (Ba Vân) thành lập Ban Việt kịch Năm Châu, nhằm lợi dụng sân khấu để tập hợp văn nghệ sĩ  và  hoạt động yêu nước theo sự chỉ đạo của ông Mai Văn Bộ, Ủy viên Tuyên truyền của Thành hội Liên Việt thành phố Sài Gòn. Ông tuyên bố: “Sân khấu là môi trường hoạt động chính trị của tôi trong mấy chục năm qua. Tôi tôn trọng sân khấu như một thánh đường”. Sau năm 1954, sinh sống và hoạt động nghệ thuật ở vùng địch tạm chiếm, mặc dù bị nhà cầm quyền o ép, mua chuộc đủ cách, ông vẫn giữ vững bản lĩnh và khí tiết của một nghệ sĩ yêu nước chân chính. Năm 1978, ông mất tại thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1988, do có những đóng góp quan trọng cho nền nghệ thuật cải lương nước nhà, ông được Nhà nước truy tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân.

Tiền lương, phụ cấp, nhà ở và điều kiện làm việc đối với sĩ quan tại ngũ

1.Chế độ tiền lương và phụ cấp do Chính phủ quy định; bảng lương của sĩ quan được tính theo chức vụ, chức danh đảm nhiệm và cấp bậc quân hàm phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của quân đội là ngành lao động đặc biệt; phụ cấp thâm niên được tính theo mức lương hiện hưởng và thời gian phục vụ tại ngũ. Sĩ quan được hưởng phụ cấp, trợ cấp như đối với cán bộ, công chức có cùng điều kiện làm việc và phụ cấp, trợ cấp có tính chất đặc thù quân sự;

2. Đủ tiêu chuẩn, đến thời hạn xét thăng quân hàm nh­ưng đã có bậc quân hàm cao nhất của chức vụ đang đảm nhiệm hoặc đã có bậc quân hàm Đại tá, cấp Tướng 4 năm trở lên mà ch­ưa đ­ược thăng cấp bậc quân hàm cao hơn thì được nâng lương theo chế độ tiền l­ương của sĩ quan;

3. Giữ nhiều chức vụ trong cùng một thời điểm thì được hưởng quyền lợi của chức vụ cao nhất và phụ cấp kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo theo quy định của pháp luật;

4. Khi có quyết định miễn nhiệm chức vụ thì được hưởng các quyền lợi theo cương vị mới;

5. Được bảo đảm điều kiện để thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng;

6. Được hưởng phụ cấp nhà ở; được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội, được bảo đảm nhà ở công vụ theo quy định của pháp luật.

1. Sĩ quan tại ngũ được chăm sóc sức khỏe; khi bị thương, ốm đau ở xa các cơ sở quân y hoặc mắc những bệnh mà cơ sở quân y không có khả năng điều trị thì được khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở dân y, được quân đội thanh toán viện phí.

2. Bố, mẹ, người nuôi dưỡng hợp pháp của chồng và của vợ, vợ hoặc chồng và con dưới 18 tuổi của sĩ quan tại ngũ không có chế độ bảo hiểm y tế thì được khám bệnh, chữa bệnh miễn hoặc giảm viện phí tại các cơ sở quân y và dân y theo quy định của Chính phủ.

Dự án may mặc Nakano Việt Nam tại Khu công nghiệp WHA Industrial Zone 1 - Nghệ An được cấp chứng nhận đăng ký đầu tư ngày 14/7/2021, tổng mức đầu tư khoảng 70 tỷ đồng.

Mặc dù ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, việc triển khai thủ tục, xây dựng nhà máy khá khó khăn, nhưng chỉ sau gần 16 tháng kể từ khi cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, 10 tháng kể từ ngày khởi công xây dựng, dự án đã hoàn thành và đi vào hoạt động.

Đây là dự án chuyên sản xuất đồ may mặc xuất khẩu, với công suất thiết kế 30.000-50.000 sản phẩm/tháng, sử dụng khoảng 300 lao động, là một trong những dự án mà tỉnh Nghệ An mời gọi đầu tư.

Đại diện nhà đầu tư khẳng định đây là dự án thân thiện với môi trường, công nghệ tiên tiến, sẽ là môi trường tốt cho công nhân, người lao động làm việc; đồng thời mong muốn được các ban, ngành, địa phương hỗ trợ trong suốt quá trình hoạt động.