Chính sách xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2021-2025 (Hình từ internet)
Kết quả cần đạt được đến năm 2025 của chính sách xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2021-2025
Các kết quả và chỉ tiêu chủ yếu cần đạt được đến năm 2025 bao gồm:
* Các kết quả và chỉ tiêu chủ yếu của Chương trình:
- Phấn đấu giảm 1/2 số hộ nghèo và hộ cận nghèo so với đầu kỳ theo chuẩn nghèo đa chiều của quốc gia;
- 100% các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo được hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội liên kết vùng, phục vụ dân sinh, sản xuất, thương mại, lưu thông hàng hóa và cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản; ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, gồm: đường giao thông, trường học, cơ sở y tế, cầu, hạ tầng điện, công trình thủy lợi;
- Hỗ trợ xây dựng, nhân rộng trên 1.000 mô hình, dự án giảm nghèo hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch, khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh nhằm tạo sinh kế, việc làm, thu nhập bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, dịch bệnh cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo; người dân sinh sống trên địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo;
- Phấn đấu 80% người có khả năng lao động, có nhu cầu thuộc hộ nghèo, hộ trên địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo được hỗ trợ nâng cao năng lực sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp nhằm đổi mới phương thức, kỹ thuật sản xuất, bảo đảm an ninh lương thực, đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng, tăng thu nhập;
- Phấn đấu hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo có ít nhất một thành viên trong độ tuổi lao động có việc làm bền vững;
- 100% cán bộ làm công tác giảm nghèo được bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, kỹ năng cơ bản về quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình, chính sách, dự án giảm nghèo; lập kế hoạch có sự tham gia, xây dựng kế hoạch phát triển cộng đồng và nghiệp vụ giảm nghèo.
* Các chỉ tiêu giải quyết mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản:
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 cùng với hệ thống chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội góp phần giải quyết mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản như sau:
+ 100% người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo có nhu cầu được hỗ trợ kết nối, tư vấn, định hướng nghề nghiệp, cung cấp thông tin thị trường lao động, hỗ trợ tìm việc làm;
+ Tối thiểu 100.000 người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, vùng nghèo, vùng khó khăn được hỗ trợ kết nối việc làm thành công;
+ Tối thiểu 9.500 người lao động thuộc các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo được hỗ trợ đào tạo; trong đó, có khoảng 5.700 lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (ít nhất 80% hộ gia đình có người đi làm việc ở nước ngoài sẽ thoát nghèo). Hỗ trợ khoảng 1.200 người lao động tham gia các khóa đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo các Hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước tiếp nhận.
- Chiều thiếu hụt về y tế: 100% người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo được hỗ trợ tham gia bảo hiểm y tế; giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 16 tuổi tại các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo xuống dưới 34%.
- Chiều thiếu hụt về giáo dục, đào tạo:
+ Tỷ lệ trẻ em thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo đi học đúng độ tuổi đạt 90%;
+ Tỷ lệ người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và tỷ lệ người lao động thuộc vùng nghèo, vùng khó khăn qua đào tạo đạt 60%, trong đó có bằng cấp chứng chỉ đạt 25%; 100% người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người lao động có thu nhập thấp có nhu cầu được hỗ trợ đào tạo kỹ năng nghề phù hợp.
- Chiều thiếu hụt về nhà ở: Tối thiểu 100.000 hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn các huyện nghèo được hỗ trợ nhà ở, đảm bảo có nhà ở an toàn, ổn định, có khả năng chống chịu tác động của thiên tai, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và giảm nghèo bền vững.
- Chiều thiếu hụt về nước sinh hoạt và vệ sinh: 90% hộ nghèo, hộ cận nghèo sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; ít nhất 60% hộ nghèo, hộ cận nghèo sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh.
- Chiều thiếu hụt về thông tin: 90% hộ nghèo, hộ cận nghèo có nhu cầu được tiếp cận sử dụng các dịch vụ viễn thông, internet; 95% các hộ gia đình sinh sống địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo được tiếp cận thông tin về giảm nghèo bền vững thông qua các hình thức xuất bản phẩm, sản phẩm truyền thông.
%PDF-1.5 %µµµµ 1 0 obj <>>> endobj 2 0 obj <> endobj 3 0 obj <>/ProcSet[/PDF/Text/ImageB/ImageC/ImageI] >>/MediaBox[ 0 0 595.44 841.68] /Contents 4 0 R/Group<>/Tabs/S/StructParents 0>> endobj 4 0 obj <> stream xœ�YKo#7¾ÈÐq|Eõ,ö8ɦ» ZÔY z(ŠîöÐìÿ?–ÉöH3š(Åbmk†¤(>>’ »ù…ÝÞÞ< �&n¾üùã;ëþþÑ¿ü¶ÙnÙþ0°ýñúêæ ׆¿]_ô˜ô–ͬ•\)v|»¾ì{øx¸¾zíØævüùúêŽøÙÝÓÀØd'XÝIsŸïà¸vÌ*ÃmÜéµû4‘9å' n3Æ[¡b[ò.îª$w2ßuØ€¦£�í¾n$v�mJXŽ+µv…gr§9bA.¶ é[à,}K×r¿Oß}ã„îôœè¥ Ïmz¯+ÛJë¸Ò3-ïšl%�*™³È6rŽCæÖNÑÄŽ½v¿¾4Ù¸ö™øƒ{U“Ê(‘[(ÝKNÝû°Oîìvg—·…:ä®tŸ:˜6¥<=zÇŽ•m½ç¦õi”H3‰’S¡ˆQ"‡Yô´¨«¬áÎÔÕ�%¾¬%~ *¸0-±Q¢!·È&‰ªN¸úI¾¶Ü7Ù@×å/9V„9`�[w�/Äîn«F_ŽÙÝÛ%¿]’æRÚ³Ûq¡3æzv{ÉsÚÏÕ=>mzE\½¦<ê±kLs�!JµKè¬$“QÜ`]í™gÌÇ<¯ 7Ša869Þ~¬êEñÚ6Úñî½LH5Au“@ß( hë†+-@�…˵¾T BœP)Ž‹xÀÓY=Å2Èå6`.†b]&gµ 0:€jN>t*ë>á;¦j/#¾K™È0ïšDæÒk“à?±‡²Êî·M†ûôZ�¥„× {x/cõw÷‘ý¤ÜîüzùˆŠŒD±]XdW–Ê3yHä¹EÄVŠÉ“�ΛŸ,³‹• e“Ï5uT€2§× ¤ ý](†¾F[ ‰MSN2À]›Š@UW«õm/±¤2ÚÏŸ^X@â¯MªJJª…ª³:“˱ÉËÉ)ÞNåŠB¿qHkHåK�ËñCÖU$ _jr(ƒlÙhhl›ÑÐR'—Ñ2Á…ð GüùÔ–ö©¥Ë¤$üY®c3 J¸„™ÎÏìyÓ»n÷{EweÜÌáÕà @"{Ò'~0|)ªlÆx}+÷ôß�Ý Ê15{Œ¯”âÚÅ™$<§gÕ™„6Àb‡Öü :ÁUq®ç y¹ÜÉÏ=‡Šk(w_îäçÌÊlûV ñ-ff%¨îcgP>¥�Áµ�ˆß‘m›bŠŠ‘2uõæµ»qfôCù¢9@O®hÙæÝ !6Hm¦kk:Z'4–‹6‘Õ¡©€Ë6‘ëS�+.lè$� ™²cšxÃýXû4ãÅÈ°µìB =£öËÙ•§–ÁTSÎî8f֗ž¾àöÀÌö-oeÎù G?;-ÄÜå÷=5,AÂœ�v(O;ãgä—�( Ý`·\uòTšcÇÂʲx¿Dã™;ãÝTUj‚“–½9cDŒ8\"¤>5Zªx.¹õ.C:É5fÌ�w‰¥8P@@s{9ÁÓ)†{\;’rg'k»D¯¸Ïõ£‰ Rˆi<4+V˜{eL\4–¢ô ‘Ý$£˜Ã „еÆZžPhæ"Ô¡lÀjn¦9%ß¿û‰ÑÄïCs‰á‡’ž�?T碖BÒÖÍÕ8öJ/a[$6νRxMeuîÍ%aNS1–Õb\ ÐäÙ&‰7sadiŠcÙZw�2DÊ&‘+WsË©A��9Á'7¢û‰$Tk—f:ª)eÎX¼¤¬8³Òä :Î �Õyƒú|€)ÏHß×È© P]¼hWd¨Q-›*#⊤‘«ÆD ¬žk³î �|2þ%H#�÷Ì:Å¥co§µÖaù/- …f¾J´´ü‡žxÚÙ:úyKËpÉÉQSªËDœØ)á =ܤÝÃZS©)`°X%ÚÈn èn}€¡·´Ôãj܃îù2GöoÉ:ÿäcoÝ endstream endobj 5 0 obj <> endobj 6 0 obj <> endobj 7 0 obj <> endobj 8 0 obj [ 9 0 R] endobj 9 0 obj <> endobj 10 0 obj <> endobj 11 0 obj <> endobj 12 0 obj <> endobj 13 0 obj <> endobj 14 0 obj <>/Font<>/ProcSet[/PDF/Text/ImageB/ImageC/ImageI] >>/MediaBox[ 0 0 595.44 841.68] /Contents 15 0 R/Group<>/Tabs/S/StructParents 1>> endobj 15 0 obj <> stream xœÝ[Ýo77àÿA�»+‹úŒü_{H‹õ=}H}\ì´‡&Àý÷GjfvGÒh–»A€^ÑÔØYK$‡?’-.~——ßÝ|{+Ôv+®ooÄïçg ¬4N(üÏé…5€?]4Œx|>?»øöùíÓ/àÅíGñæüL¼úîFˆ -˜ÒÒ‰�µ²sÂHÎ Ý”RhQү߾<‰Õ//›þ¸È^ßãÆ;àdôâþWä’x€Ð1HïDJ¢t÷È@‰'úñ÷󳇕Xÿ$îÿq~öê~†“8½|Ø|ÿ:ç¤g8A¥BNø^Æ&N—Ji¯T¸Þn~v ”½ÚîY.ˆ�t– ÛCë(m,Åpÿw(ŠÄ¸VJ™^¬»;eým!ÖŽ\祇‚œ}ZË£›án}ÏÍ^öœ�î9û«½b”!)·ã’é¯zaÓ¯ç¹tDJ!¯KÕV�ù®Þ¯çYå¥m³T>d[>´óçdèD€Nº‘â7,Cƒï$Øl'¾ô-°^‚§€ËØ>ŠÏå{78Ç(ƒ)9ß\·|•ÖA±|°ùvㆠ!#›{§OžÛû�+¹#:kiîxqÖiB®‡2Îökƒ4#¡$zªÆ‡Ç‡ÕïŸXÊ3ÊI€œ í'ÛñÖ Â®+m÷ôþízcQø�c:�ñPÒ!!Ê kᣄ¸¬¸ÛP‰¿s�í&\ön@ñŽÿÐ�£Kð‚ÙD¢Ú« P×y3Cß!Záo´æ�÷‡â 0zÁЖ×ÎȵôDßzwº6}"|Õw%^ì‚\ƒìt¾ÓøV‚Q„ˆ9²Ãy��¤Ë‚�©¬íf!БÚ&{W/Oë�Y‰U®8§ˆ–�)çmx¼µÒT¿d¼Å¿ß}¤ø{›dxÇ’Acb¦Ïe¨À®!¡“½b3E¤Ç¿UÌc €N¨$@jã y¦µÐKfü«„…KŽ™à*U Ñ úAE€ ôÕv/{‡ÒwJ½ „‘œá`”t¿:Y5àÓWýV¯Þ¬íêS23:\ƒ/âœÎ�s1²»vdÏÙ~ŒlˆÒJ\ƒÁK+Ib[’9% ’¸¤+–(ÙZ=ë<…»d;î”âþ?
Ngay sau khi chia tách, thành lập tỉnh Lai Châu năm 2004, Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh đã xác định tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, các chương trình mục tiêu quốc gia liên quan tới vấn đề trên. Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 2-7-2004, của Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh, “Về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm giai đoạn 2004 - 2010” xác định quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, xóa đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm đối với tỉnh Lai Châu là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa to lớn cả về chính trị, kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh. Đây là vấn đề lớn, phức tạp, lâu dài. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI xác định, đẩy mạnh hơn nữa công tác xóa đói, giảm nghèo, xác định đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là trách nhiệm chính trị của toàn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong suốt nhiệm kỳ.
Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lai Châu lần thứ XIII xác định: “Tập trung thực hiện giảm nghèo bền vững, tạo chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo, khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chương trình, dự án giảm nghèo; tạo điều kiện cho hộ nghèo, hộ cận nghèo tiếp cận các chính sách hỗ trợ về đất đai, tín dụng, giáo dục nghề nghiệp, tạo việc làm, khuyến nông - lâm - ngư, tiêu thụ sản phẩm... phát triển sản xuất, tăng thu nhập, vươn lên thoát nghèo”.
Để cụ thể hóa các chủ trương về xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ tỉnh, trong từng nhiệm kỳ, Tỉnh ủy Lai Châu đã ban hành các nghị quyết chuyên đề nhằm tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả, như Nghị quyết số 05-NQ/TU; Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 20-4-2011, về “Phê duyệt chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững tỉnh Lai Châu giai đoạn 2011 - 2015”; Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 28-6-2016, về “Chương trình giảm nghèo bền vững tỉnh Lai Châu giai đoạn 2016 - 2020”. Cấp ủy, chính quyền các cấp đã ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo; các chính sách hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, đào tạo nghề và giải quyết việc làm, từ đó, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế, giúp người nghèo từng bước tiếp cận, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao đời sống, vươn lên thoát nghèo bền vững.
Sau hơn 15 năm chia tách, thành lập tỉnh, Đảng bộ tỉnh Lai Châu tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và huy động các nguồn lực để cụ thể hóa và thực thi các chủ trương, chính sách về xóa đói, giảm nghèo, đạt được một số thành tựu quan trọng. Nhận thức, trách nhiệm về công tác xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm của các cấp, các ngành và nhân dân từng bước được nâng lên, huy động được cả hệ thống chính trị để thực hiện công tác trên, nhất là ở cấp cơ sở; hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội được tăng cường đầu tư, phát huy hiệu quả thiết thực phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân,...
Một là, hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập của hộ nghèo, đặc biệt là các hộ nghèo người dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn.
Tỉnh Lai Châu triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ sản xuất; khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; thúc đẩy ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp để đưa sản xuất nông, lâm nghiệp của tỉnh theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung; gắn phát triển sản xuất nông nghiệp với thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, cơ cấu lại ngành nông nghiệp của tỉnh. Giai đoạn 2016 - 2019, tỉnh hỗ trợ cho gần 53.000 lượt hộ về giống cây trồng, vật nuôi, giống thủy sản, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; hỗ trợ cho trên 72.000 lượt hộ nhận giao khoán chăm sóc, bảo vệ rừng với tổng số trên 296 nghìn lượt héc-ta rừng được giao khoán,…
Giai đoạn 2016 - 2019, tỉnh Lai Châu đẩy mạnh đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm. Tỉnh đào tạo nghề cho 17.365 lao động; thông qua các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội đã hỗ trợ các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp vừa và nhỏ; có chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo, vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động... Đến hết năm 2019, tỉnh Lai Châu giải quyết việc làm cho gần 21.000 lao động, bình quân giải quyết việc làm cho 6,9 nghìn lao động/năm, xuất khẩu lao động 276 người, góp phần tạo sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực.
Hai là, đầu tư kết cấu hạ tầng.
Giai đoạn 2016 - 2019, tỉnh Lai Châu tiếp tục đầu tư hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng ở các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Toàn tỉnh đã đầu tư 307 công trình tại địa bàn các huyện, các xã, thôn, bản. Mạng lưới giao thông ngày càng được hoàn thiện và phát triển đồng bộ, cơ bản đáp ứng được nhu cầu đi lại của nhân dân, kết nối lưu thông hàng hóa, giao lưu văn hóa giữa các vùng trong tỉnh. Đến nay, 100% số xã có đường ô-tô đến trung tâm được làm cứng; 93,7% số thôn, bản có đường ô-tô, xe máy đi lại thuận lợi, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh - quốc phòng trên địa bàn tỉnh. Các dự án cấp điện cho các thôn, bản chưa có điện tiếp tục được quan tâm đầu tư, 108/108 (100%) số xã sử dụng điện lưới quốc gia. Tăng cường huy động các nguồn lực để đầu tư cơ sở vật chất cho trường học, lớp học; trang, thiết bị y tế, từng bước xóa phòng học tạm. Tính đến hết năm 2018, toàn tỉnh có 6.861 phòng học, trong đó 4.471 phòng kiên cố (chiếm 65,16%); có trên 80% trạm y tế có cơ sở vật chất đạt chuẩn theo bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã.
Ba là, nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho hộ nghèo.
Tỉnh Lai Châu tập trung giải quyết cơ bản các thiếu hụt về giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường, thông tin, truyền thông cho các hộ nghèo trên địa bàn tỉnh theo Quyết định số 1614/QĐ-TTg, ngày 15-9-2015, của Thủ tướng Chính phủ, về phê duyệt Đề án tổng thể “Chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020”. Chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên, tỷ lệ học sinh khá, giỏi năm học sau đều tăng so với năm học trước. Công tác khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tỉnh cơ bản đáp ứng được nhu cầu; chất lượng một số dịch vụ kỹ thuật cao từng bước được nâng lên. Thực hiện tốt các chính sách về bảo hiểm y tế, nhất là đối với người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi. Tỉnh Lai Châu đã làm nhà cho 973 hộ nghèo. Đầu tư nước sạch và vệ sinh môi trường bằng nhiều nguồn vốn, đến hết năm 2019, có 85,2% số dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 95,5% số dân đô thị được sử dụng nước đã qua xử lý.
Bốn là, nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác giảm nghèo.
Tỉnh Lai Châu quan tâm tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác giảm nghèo các cấp; hằng năm, tỉnh có trên 6.200 lao động được đào tạo. Giai đoạn 2016 - 2020, tỉnh đào tạo 5.464 lao động công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Thông qua các lớp tập huấn, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo được nâng lên. Cán bộ làm công tác giảm nghèo tại các xã đã nắm được một số kiến thức cơ bản về kỹ năng quản lý và tổ chức thực hiện các chương trình, chính sách, dự án, lập kế hoạch công tác giảm nghèo.
Hơn 15 năm thực thi chính sách xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, tỉnh Lai Châu đã đạt được một số kết quả quan trọng, góp phần làm thay đổi diện mạo nông thôn, miền núi, giải quyết cơ bản nhu cầu của người dân về giao thông, nước sinh hoạt, nước sản xuất, trường, lớp học,... Đời sống của nhân dân, nhất là ở các xã nghèo ở tỉnh Lai Châu từng bước được nâng lên. Thu nhập bình quân của người dân trong tỉnh nói chung, vùng khó khăn nói riêng tăng khá. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 12,8%/năm; tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đầu người đạt 40 triệu đồng, tăng hơn 2 lần so với năm 2015. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, bình quân 4,75%/năm; năm 2020 còn 16,7%. Hai huyện Than Uyên và Tân Uyên được Chính phủ công nhận thoát nghèo năm 2018.
Những kết quả đạt được trong công tác giảm nghèo đã góp phần củng cố và tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội,... tạo tiền đề thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
Bên cạnh những kết quả nổi bật, việc tổ chức thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Lai Châu hơn 15 năm qua vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra, như công tác phối hợp trong chỉ đạo, điều hành của một số cấp ủy, chính quyền, cơ quan và tổ chức chính trị - xã hội chưa thực sự chặt chẽ, thiếu quyết liệt; việc xây dựng chương trình, kế hoạch để tổ chức thực hiện chưa sát với tình hình thực tiễn, nhất là ở cấp cơ sở; chất lượng hoạt động giám sát quá trình triển khai thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm của các tổ chức chính trị - xã hội còn hạn chế; công tác tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao nhận thức về giảm nghèo hiệu quả còn thấp; một bộ phận cán bộ, đảng viên, người nghèo vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước.
Chương trình tín dụng ưu đãi cho người nghèo, hiệu quả sử dụng vốn tín dụng chưa cao, một bộ phận hộ nghèo vay vốn sử dụng đúng mục đích nhưng hiệu quả thấp. Việc cho vay vốn hỗ trợ giảm nghèo có thời điểm còn thiên về số lượng lượt hộ vay nên khoản cho vay nhỏ bé, chưa giúp được các hộ nghèo tạo được đà bứt phá. Chính sách đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở các xã nghèo có hạng mục còn chậm và chưa đạt yêu cầu; chính sách hỗ trợ giáo dục cho người nghèo, khả năng tiếp cận giáo dục của người nghèo còn hạn chế, do sự thiếu hụt về chất lượng giáo viên và cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học. Tỷ lệ người nghèo được tiếp cận với dịch vụ y tế chưa bảo đảm; chính sách hỗ trợ nhà ở cho người nghèo có thời điểm, có nơi thực hiện còn mang tính bình quân, thiếu đồng bộ. Chương trình đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ xã nói chung, cán bộ làm công tác xóa đói, giảm nghèo ở cơ sở nói riêng chưa đạt được yêu cầu. Năng lực cán bộ xã, thôn, bản nhìn chung còn yếu. Mặc dù số lượng cán bộ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ khá nhiều, nhưng sự chuyển biến về trình độ, năng lực trong công tác chưa rõ rệt. Tỷ lệ tái nghèo và nghèo phát sinh cao, kết quả giảm nghèo chưa bền vững, đời sống của những hộ mới thoát nghèo còn gặp nhiều khó khăn. Khi gặp thiên tai, rủi ro, cuộc sống của họ dễ tái nghèo. Chênh lệch về thu nhập giữa người giàu và người nghèo, người ở thành thị và nông thôn ngày càng tăng...
Những hạn chế nêu trên chủ yếu là do tỉnh Lai Châu có địa bàn rộng, địa hình chia cắt phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, khí hậu khắc nghiệt, thêm vào đó, tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân, nhất là người nghèo; kết cấu hạ tầng để phát triển kinh tế - xã hội tuy đã được cải thiện nhưng còn thiếu và chưa đồng bộ. Một số cấp ủy, chính quyền cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo còn thiếu quyết liệt, chưa thật sự chủ động; nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác giảm nghèo, giải quyết việc làm chưa đầy đủ. Một số đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa vẫn còn nhiều tập tục lạc hậu, du canh làm ảnh hưởng không nhỏ đến công tác xóa đói, giảm nghèo. Việc tuyên truyền, ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất và đời sống của đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa, vùng cao chưa được triển khai mạnh mẽ. Trình độ, năng lực tham mưu cho chính quyền cơ sở của một số cán bộ làm công tác giảm nghèo chưa đáp ứng yêu cầu; công tác điều tra, khảo sát các nhu cầu hỗ trợ cho người nghèo không sát thực tế, dẫn đến kết quả thực hiện một số chương trình còn thấp. Nguồn lực cho công tác giảm nghèo, giải quyết việc làm còn hạn chế, việc lồng ghép các nguồn vốn từ các chương trình, dự án trên địa bàn thực hiện chưa hiệu quả, việc huy động nguồn lực tại chỗ của cộng đồng, dòng họ đạt thấp. Công tác kiểm tra việc thực hiện chương trình giảm nghèo, giải quyết việc làm tại một số huyện, xã thiếu thường xuyên. Việc xây dựng và nhân rộng các mô hình giảm nghèo còn ít, hiệu quả chưa cao, chưa thực sự lan rộng và trở thành phong trào trong cộng đồng.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm trong thời gian tới
Trong điều kiện tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo của tỉnh còn cao, việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm ở tỉnh Lai Châu luôn là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên; nhiều vấn đề mới đã và đang đặt ra những thách thức cho quá trình thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững trong giai đoạn tới. Chính vì vậy, để thực hiện được mục tiêu giải quyết việc làm, giảm nghèo nhanh và bền vững, thời gian tới, tỉnh Lai Châu cần tập trung thực hiện một số giải pháp:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Lai Châu đối với công tác giảm nghèo; thường xuyên tiến hành sơ kết, tổng kết, đánh giá đúng ưu điểm, hạn chế, bất cập trong thực hiện chủ trương, chính sách về giảm nghèo để tìm ra các giải pháp hiệu quả; nhân rộng những mô hình hay trong công tác giảm nghèo. Lãnh đạo các ngành, đoàn thể các cấp trên địa bàn tỉnh cần phối hợp thực hiện nhiệm vụ giảm nghèo gắn với xây dựng nông thôn mới đồng bộ, quyết liệt; xác định đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, là việc làm thường xuyên của cả hệ thống chính trị.
Thứ hai, tiếp tục triển khai đồng bộ các chính sách giảm nghèo, gắn với thực hiện hiệu quả các chính sách đặc thù của tỉnh Lai Châu về xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hóa theo hướng ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, áp dụng công nghệ cao, tạo ra sản phẩm có thương hiệu, sức cạnh tranh để nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn. Tập trung phát triển sản xuất, hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo.
Thứ ba, tiếp tục đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Lai Châu, hoàn thiện hệ thống đường giao thông nông thôn phục vụ sản xuất, dân sinh; tiếp tục cải tạo, xây mới hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất. Thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các chính sách ưu đãi về giáo dục đối với các học sinh, sinh viên thuộc diện hộ nghèo; đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, chất lượng dịch vụ y tế, khám, chữa bệnh để mọi người dân được tiếp cận với dịch vụ y tế. Tạo điều kiện để người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn của tỉnh được tiếp cận với các dịch vụ thông tin, hiểu về trách nhiệm và quyền lợi của mình, cùng với các chính sách hỗ trợ của Nhà nước để chủ động lao động, sản xuất vươn lên thoát nghèo.
Thứ tư, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan thực hiện chính sách giảm nghèo của hệ thống chính trị cấp cơ sở trên địa bàn Lai Châu. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực triển khai các chủ trương, chính sách cho đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ giảm nghèo. Kịp thời phát hiện và khắc phục những sai sót, khó khăn, vướng mắc trong công tác giảm nghèo, động viên, khuyến khích cán bộ làm việc có hiệu quả, yên tâm gắn bó với cơ sở.
Thứ năm, tập trung nguồn lực cho phát triển kinh tế, đặc biệt là ở các huyện nghèo, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh; huy động mọi nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa trong công tác giảm nghèo, giải quyết việc làm, tạo thành phong trào sâu rộng, thu hút và động viên sự tham gia của các tầng lớp dân cư trong việc thực hiện các chương trình giảm nghèo, hỗ trợ, giúp đỡ việc làm cho người nghèo. Triển khai lồng ghép chương trình giảm nghèo với chương trình xây dựng nông thôn mới và các chương trình dự án khác nhằm huy động tối đa nguồn lực cho giảm nghèo, bảo đảm người nghèo có điều kiện vươn lên thoát nghèo.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức, ý thức tự vươn lên của người nghèo, không ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Nêu gương, động viên, khen thưởng kịp thời những hộ nghèo điển hình trong phát triển kinh tế, thoát nghèo bền vững, đồng thời phê bình các hộ nghèo không có ý chí vươn lên, không muốn thoát nghèo. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện kế hoạch và các chính sách giảm nghèo, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, khắc phục yếu kém, khuyết điểm trong tổ chức thực hiện./.
Đổi thay từ vốn tín dụng chính sách trên cao nguyên Mộc Châu
(ĐCSVN) - 11 tháng năm 2024, doanh số cho vay của NHCSXH huyện Mộc Châu đạt hơn 126 tỷ đồng với 2.436 lượt khách hàng vay vốn. Tổng dư nợ của NHCSXH Mộc Châu đến tháng 11/2024 đạt 379 tỷ đồng, tăng so với cuối 2023 hơn 50 tỷ đồng.
Tín dụng chính sách đồng hành cùng người dân Yên Bái khắc phục hậu quả bão lũ
(ĐCSVN) - Yên Bái là một trong những tỉnh miền núi phía Bắc chịu thiệt hại nặng nề do hoàn lưu của cơn bão số 3 (bão Yagi) với những đợt mưa to, lũ lớn diễn ra từ ngày 5 - 11/9/2024. Trước tình hình đó, cùng cấp ủy và chính quyền địa phương, Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) quyết tâm đưa nhanh vốn tính dụng về vùng bão lũ, hỗ trợ tích cực, hiệu quả cho khách hàng bị thiệt hại do thiên tai sớm khôi phục sản xuất kinh doanh, ổn định cuộc sống.
NHCSXH tạm dừng thu lãi hộ vay bị thiệt hại do bão số 3
(ĐCSVN) - Ngày 19/9, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) Huỳnh Văn Thuận cho biết sẽ tạm dừng thu lãi đối với hộ vay bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 và mưa lũ sau bão đến hết ngày 31/12/2024.
NHCSXH chung tay ủng hộ bà con bị thiệt hại bão số 3
(ĐCSVN)- Với tinh thần “tương thân, tương ái”, “lá lành đùm lá rách”, các cán bộ đoàn viên công đoàn và người lao động Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) đã và đang dốc lòng, dồn sức cùng chung tay khắc phục hậu quả của bão lũ, chia sẻ, ủng hộ nhân dân vùng bị thiệt hại do bão lũ gây ra.
Tín dụng chính sách giúp dân vùng biên Sốp Cộp (Sơn La) giảm nghèo
(ĐCSVN) - Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La đã huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, tập trung các nguồn lực, đặc biệt là nguồn vốn tín dụng ưu đãi chính sách, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo bền vững trên địa bàn.
Điều chỉnh lãi suất cho vay nhà ở xã hội: Đảm bảo cân đối nhiều yếu tố
(ĐCSVN) - Từ ngày 01/8/2024, Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) thực hiện lãi suất cho vay mua, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở từ mức 4,8%/năm lên 6,6%/năm. Mức lãi suất mới này được điều chỉnh nhằm đảm bảo tính bền vững của chương trình cho vay và giảm tải gánh nặng ngân sách nhà nước.
Gần 6,8 triệu hộ gia đình vượt qua ngưỡng nghèo
(ĐCSVN) - Đến hết 31/7/2024, tổng nguồn vốn của NHCSXH đạt 373.010 tỷ đồng, tổng dư nợ đạt 350.822 tỷ đồng với gần 6,9 triệu hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác còn dư nợ.
Hoài Nhơn chuyển mình thành đô thị mới nhờ vốn tín dụng chính sách
(ĐCSVN) - Trên quê hương giàu truyền thống cách mạng Hoài Nhơn ngày nay, hầu hết hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác có nhu cầu, có đủ điều kiện đã được vay vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước thuận lợi, kịp thời vào vụ sản xuất kinh doanh.
Hà Nội: Hiệu quả các chương trình cho vay giải quyết việc làm đối với chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới
(ĐCSVN) - Với chủ trương thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn toàn diện theo hướng hiện đại, nguồn vốn chương trình cho vay giải quyết việc làm của Chi nhánh NHCSXH thành phố Hà Nội sẽ trở thành công cụ đắc lực, chung tay giúp sức cho các địa phương trong xây dựng NTM.
Khẳng định sứ mệnh, trách nhiệm to lớn của tín dụng chính sách
(ĐCSVN) - Tính đến nay, tổng nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đạt 373 nghìn tỷ đồng, trong khi dư nợ là 351 nghìn tỷ đồng. Theo đánh giá của một số bộ, ngành và chuyên gia, đây không chỉ là vốn mồi thoát nghèo, đẩy lùi "tín dụng đen" mà còn tạo bước chuyển tiếp để người dân vươn lên thành hộ sản xuất hoặc doanh nghiệp vi mô...
Phát động Cuộc thi viết “Tín dụng chính sách xã hội - Ý Đảng, lòng Dân”
(ĐCSVN) – Sáng 12/8, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) tổ chức Họp báo phát động Cuộc thi viết “Tín dụng chính sách xã hội - Ý Đảng, lòng Dân”.
Chư Sê vươn mình nhờ vốn tín dụng chính sách
(ĐCSVN) - Từ một miền quê nghèo khó, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã phát triển nhanh, mạnh và bền vững, trở thành vùng động lực phía nam của tỉnh Gia Lai. Có được kết quả này là nhờ quyết tâm chính trị của lãnh đạo địa phương, cũng như việc triển khai hiệu quả các giải pháp, các nguồn lực đầu tư trên toàn địa bàn.
Công đoàn NHCSXH tỉnh Quảng Ngãi tổ chức hoạt động tri ân đền ơn đáp nghĩa
(ĐCSVN) - Nhân kỷ niệm 77 năm Ngày thương binh, liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2024), Công đoàn cơ sở NHCSXH tỉnh Quảng Ngãi tổ chức dâng hương tại Nghĩa Trang Liệt sĩ, thành phố Quảng Ngãi, thăm hỏi và tặng quà cho gia đình cócông với cách mạng trên địa bàn tỉnh
Hành trình đưa vốn của những cán bộ tín dụng chính sách Quảng Ngãi
(ĐCSVN) - Hơn hai thập kỷ gắn bó với đồng bào các dân tộc Quảng Ngãi, những cán bộ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) tỉnh đã góp một phần công sức, giúp đời sống của người dân bớt nghèo khó, thêm no ấm và làm đổi thay bộ mặt nông thôn vùng “núi Ấn, sông Trà”.
Yên Bái đổi thay tích cực nhờ từ tín dụng chính sách
(ĐCSVN) – Yên Bái là tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc Bộ, giàu tiềm năng, lợi thế về đất đai, khoáng sản, giao thông và du lịch; song nhiều địa phương của tỉnh vẫn còn khó khăn, nhất là hai huyện vùng cao Trạm Tấu, Mù Cang Chải nằm trong số các huyện nghèo nhất nước. Năm 2021, toàn tỉnh còn 39.721 hộ nghèo, tương ứng với tỷ lệ 18,07%. Nhờ tín dụng chính sách, địa phương đã có những đối thay tích cực.
Thành phố Đà Nẵng sử dụng hiệu quả nguồn lực tín dụng chính sách xã hội
(ĐCSVN) - Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, cấp ủy, chính quyền thành phố xác định một trong các giải pháp quan trọng thực hiện chương trình mục tiêu giảm nghèo bền vững, đảm bảo an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội là sử dụng hiệu quả nguồn lực tín dụng chính sách xã hội thông qua hệ thống Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH).
Tín dụng chính sách góp sức đưa vùng quê Nghệ An khởi sắc
(ĐCSVN) - Mặc dù đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức trong năm 2023 nhưng với sự nỗ lực của cấp ủy, chính quyền, sự hưởng ứng đồng lòng của người dân, Nghệ An vẫn đạt được những kết quả tích cực về phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt, tỉnh đã thực hiện tốt, hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, đưa tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo bình quân giảm từ 2 - 3% (hiện tỷ lệ hộ nghèo là 5,19%).
Hội thi văn nghệ Ngân hàng Chính sách Xã hội năm 2024 khu vực VI
(ĐCSVN) - Cùng với các khu vực khác trong cả nước, tại TP Cần Thơ, Hội thi văn nghệ NHCSXH năm 2024 khu vực VI do NHCSXH phối hợp với 4 tổ chức chính trị - xã hội nhận uỷ thác tổ chức trong 2 ngày 6&7/7 đã diễn ra thành công tốt đẹp.
Hội thi văn nghệ Ngân hàng chính sách xã hội khu vực V
(ĐCSVN) - Hội thi văn nghệ NHCSXH khu vực V với 402 thí sinh tham gia đến từ 11 chi nhánh NHCSXH tỉnh: Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Long An, Bình Thuận, Ninh Thuận, Bình Phước, Bình Dương, Tiền Giang, Tây Ninh, Đắk Nông và TP. Hồ Chí Minh vừa được diễn ra trong hai ngày 6-7/7 tại thành phố Bà Rịa thành công tốt đẹp.
Hội thi văn nghệ Ngân hàng chính sách xã hội năm 2024 khu vực III
(ĐCSVN) - Trong 2 ngày 6&7/7, tại tỉnh Thanh Hóa, Hội thi văn nghệ NHCSXH năm 2024 khu vực III do NHCSXH phối hợp với 4 tổ chức chính trị - xã hội nhận uỷ thác tổ chức đã diễn ra thành công tốt đẹp. Hội thi có sự tham gia của 10 đội thi trong khu vực (chi nhánh NHCSXH các tỉnh: Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh Hoá).
Hội thi văn nghệ Ngân hàng chính sách xã hội năm 2024 khu vực II
(ĐCSVN) - Hội thi văn nghệ NHCSXH năm 2024, khu vực II diễn ra trong hai ngày 6-7/7 tại Bắc Ninh đã thành công tốt đẹp với sự tham gia của 366 thí sinh, diễn viên là cán bộ NHCSXH và 04 tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác đến từ 10 đơn vị tỉnh, thành phố: Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Hưng Yên, Hải Dương, Phú Thọ, Quảng Ninh, Hòa Bình và Vĩnh Phúc.
Tín dụng chính sách trên quê hương Cách mạng Tây Ninh
(ĐCSVN)- Gần nửa thế kỷ sau ngày thống nhất, mảnh đất chiến khu Tây Ninh đầy bom đạn năm nào, nay đã thay da đổi thịt. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh đã cùng nhau vượt qua bao khó khăn, quyết tâm thực hiện thành công các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Hội diễn Ngân hàng Chính sách Xã hội năm 2024 khu vực I
(ĐCSVN) – Hội thi là dịp để các đội thi và thí sinh gặp gỡ, giao lưu học hỏi, tăng tình đoàn kết, tạo không khí phấn khởi, thi đua phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, triển khai thực hiện hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, xứng đáng với niềm tin tưởng của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Hội thi tài năng văn nghệ Ngân hàng chính sách xã hội 2024 khu vực IV
(ĐCSVN) – Hội thi tài năng văn nghệ Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) 2024 là đợt sinh hoạt văn hoá, văn nghệ sâu rộng, tạo sân chơi giao lưu, gắn kết giữa NHCSXH với các tổ chức chính trị xã hội nhận uỷ thác. Từ đó, tạo không khí phấn khởi, thi đua phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, sát cánh đưa nguồn vốn tín dụng chính sách đến từng hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên cả nước
Bắc Kạn xóa đói giảm nghèo hiệu quả nhờ vốn tín dụng chính sách
(ĐCSVN)- Mùa hè 2024 này, chúng tôi đã có hành trình đến với những miền quê yên ả của tỉnh Bắc Kạn. Đi trên những con đường mới mở thênh thang, một bức tranh nông thôn miền núi trù phú, đầy sáng tươi đang mở ra ngay trong tầm mắt của đoàn công tác chúng tôi.
Tiếp tục phát huy hiệu quả công tác tín dụng chính sách nửa cuối 2024
(ĐCSVN) - Đến ngày 30/6/2024, tổng nguồn vốn tín dụng chính sách đạt 372.723 tỷ đồng, tăng 26.299 tỷ đồng (+7,6%) so với năm 2023.
Hiệu quả tín dụng chính sách tại Bố Trạch, Quảng Bình
(ĐCSVN) - Chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội” trên địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đã đem lại hiệu quả thiết thực góp phần tích cực thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới và đảm bảo an sinh xã hội”
Hành trình tín dụng chính sách thu về “trái ngọt” tại Ninh Thuận
(ĐCSVN) - Nguồn vốn tín dụng đã thực sự trở thành trợ lực giúp người dân, hộ nghèo, các gia đình chính sách tại Ninh Thuận "thay da đổi thịt". Nhiều hộ dân đã thoát nghèo, từng bước làm giàu và có sinh kế bền vững từ vốn tín dụng chính sách.
Việc triển khai thực hiện chương trình cho vay nhà ở xã hội của Ngân hàng Chính sách xã hội
(ĐCSVN) – Là một trong những đơn vị tín dụng được Chính phủ giao nhiệm vụ liên quan tới hỗ trợ tín dụng chính sách với nhà ở xã hội (NƠXH), thời gian qua, Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) từ Trung ương đến địa phương đã tập trung triển khai tích cực chương trình này.
Tín dụng chính sách góp phần thúc đẩy Kiên Giang phát triển giàu mạnh
(ĐCSVN) - Nông thôn Kiên Giang đã có những đổi thay đổi rõ nét, đời sống vật chất, tinh thần của nông dân được cải thiện; tỷ lệ hộ nghèo tại vùng đồng bào dân tộc Khmer trên vành đai biên giới giảm sâu.